Lịch sử và cơ cấu tổ chức Quân_đội_nhà_Nguyễn

Quân đội Nguyễn trải qua hai thời kỳ tổ chức và xây dựng

Thời kỳ các Chúa Nguyễn (1558 - 1777)

Khi chúa Nguyễn Hoàng (chúa Tiên) mang quân đi trấn thủ Thuận Hóa và kết thúc lúc Nguyễn Phúc Thuần (Định Vương) bị tử trận trước quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy ở Long Xuyên. Ban đầu, quân đội đi theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa có khoảng 3.000 người. Từ năm 1600, được xây dựng theo hướng quân đội của một nhà nước phong kiến. Lực lượng vũ trang nhà Nguyễn lúc này gồm có: bộ binh, thủy binh, pháo binh, tượng binh. Lực lượng bộ binh và thủy binh làm lực lượng bảo đảm cho cơ động với một đội binh thuyền khoảng 200 thuyền chiến và nhiều thuyền vận tải chở quân và lương thực, lực lượng chiến đấu chính là bộ binh. Quân số thường trực có khoảng 40 nghìn người, khi chiến sự xảy ra (trong nội chiến Trịnh - Nguyễn) quân đội Nguyễn lên tới 100 nghìn người.

Hệ thống tổ chức Quân đội Nguyễn gồm có: Dinh, cơ, đội, thuyền.

Trang bị, ngoài vũ khí truyền thống như quân đội các thời trước, quân đội Nguyễn đã được trang bị một số loại vũ khí mới như hỏa pháo, súng hỏa mai, quả nổ ném (tạc đạn)… tự sản xuất dưới sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha.

Quân Nguyễn đã 7 lần giao chiến lớn với quân của chúa Trịnh và phần lớn đã tan rã trước quân khởi nghĩa Tây Sơn trong những năm 1772 - 1777.

Thời kỳ nhà Nguyễn (1778 - 1945)

Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, những năm đầu quân Nguyễn chỉ còn lại một bộ phận ít ỏi ở đồng bằng Nam Bộ, do chúa Nguyễn Ánh lãnh đạo. Sau đó nhờ sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc (một cha cố đạo Thiên chúa giáo) và người Pháp, chúa Nguyễn Ánh tổ chức lại lực lượng vũ trang của mình (trong đó có cả quân đánh thuê), chống lại nhà Tây Sơn và giành thắng lợi vào năm 1802. Chúa Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế và lấy niên hiệu Gia Long, quân đội nhà Nguyễn được xây dựng theo mô hình nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Quân đội nhà Nguyễn trong thời kỳ này trải qua hai giai đoạn khác nhau, ứng với hai thời kỳ của Vương triều Nguyễn. Giai đoạn đầu là quân đội của một Vương triều độc lập tự chủ, giai đoạn sau là quân đội của một quốc gia phong kiến bị mất quyền tự chủ, hoàn toàn lệ thuộc vào chủ nghĩa thực dân Pháp đô hộ.

Giai đoạn độc lập (1802 - 1883)

Quân đội nhà Nguyễn có cơ cấu tổ chức như các Triều đại trước nó, gồm các lực lượng bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh, pháo binh. Cơ cấu tổ chức và hệ thống chỉ huy khá hoàn chỉnh. Quân đội nhà Nguyễn chia làm hai bộ phận chính quy, một bộ phận đóng ở kinh đô gọi là Vệ binh, có nhiệm vụ chính là bảo vệ Kinh thành Phú Xuân (Huế). Hệ thống tổ chức và biên chế cơ bản gồm có:

- Doanh biên chế 5 vệ;

- Vệ biên chế 10 đội, đứng đầu vệ là Vệ úy;

- Đội biên chế 5 thập, đứng đầu đội là Suất đội;

- Thập biên chế 10 ngũ, do Chánh đội trưởng chỉ huy;

- Ngũ gồm 5 người, do Ngũ trưởng chi huy

Vệ binh

Vệ binh quân nhà Nguyễn đóng tại kinh đô Huế có khoảng 40 nghìn người. Trong lực lượng Vệ binh lại được chia làm ba loại: Thân binh (hậu cận của vua và bảo vệ cấm thành), gồm 1 doanh và 4 vệ độc lập; Cấm binh làm nhiệm vụ quân cơ động và bảo vệ Kinh thành gồm 6 doanh và một số vệ, đội độc lập như những “binh chủng chuyên môn, kỹ thuật”: tượng binh, kỵ binh, thủy binh; Giản binh hay Tinh binh gồm một số vệ và đội thuộc các phủ, huyện, nha...Vệ binh thường tuyển những người Đàng Trong, đến năm 1885 thì lực lượng này tan rã, chỉ còn lại một số nhỏ gọi là Thân binh để hầu cận các vua của triều Nguyễn từ sau khi nhà Nguyễn hoàn toàn đầu hàng quân Pháp xâm lược. Cơ binh là lực lượng đóng giữ các tỉnh, lộ, trấn (một số tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… cón có các vệ thuộc lực lượng Cấm binh do quan tỉnh trực tiếp chỉ huy song lệ thuộc vào các doanh ở kinh đô).

  1. Thân binh gồm các vệ Cẩm Y, vệ Kim Ngô, vệ Tuyển Phong và doanh Vũ Lâm.
  2. Cấm binh gồm các doanh Thần Cơ, doanh Thần Phong, doanh Long Vũ, doanh Hổ Uy, doanh Hùng Nhuệ, vệ Kỳ Vũ, vệ Kinh Tượng (tượng binh), vệ Thượng Tứ (kỵ binh), vệ Long Thuyền (chuyên chở thuyền vua), viện Vũ Bị (lính dùng súng), viện Thượng Trà (dâng nước), đội Tư Pháo (chế thuốc súng), đội Tài Thụ (trồng cây), đội Giáo Dưỡng, vệ Võng Thành (lo bẫy săn cho vua), đội Thượng Thiện (bếp núc) và đội Phụng Thiện.
  3. Tinh binh gồm có ba doanh của Kinh kỳ thủy sư, vệ Giám Thành, vệ Thủ Hộ, vệ Dực Hùng, ty Lý Thiện (bánh trái để cúng tế), thự Hòa Thanh (ca nhạc), thự Thanh Bình (múa).
Binh lính ở các tỉnh

Trong quân đội thì có các đội bộ binh, pháo binhtượng binh (không có kỵ binh dùng giao chiến tuy kỵ binh vẫn có vai trò lễ nghi). Lính tòng quân thì chia thành hai lực lượng: lính vệ (lính giản) và lính cơ (lính lệ). Lính vệ là quân đội chính quy, thường tại ngũ, chủ yếu đóng ở kinh kỳ cùng các tỉnh thành. Lính vệ còn gọi là tuyển binh. Lính cơ thuộc loại lính mộ địa phương nên còn gọi là biền binh hay mộ binh, khi cần tới thì gọi nhưng thời bình thì về quê làm ruộng, chủ yếu là bổ sung thêm cho lực lược chính quy hay đóng ở phủ huyện. Phép luân phiên đó gọi là "Biền binh định lệ". Các đơn vị thì chia làm ba phiên; hai phiên cho về quê, chỉ giữ một phiên. Hết hạn lại thay phiên ra sung vào quân dịch.[3]

Phục dựng tượng binh nhà Nguyễn tại HuếNghi vệ tượng binh theo tranh vẽ của Pháp thế kỷ 19

Cơ binh tổ chức theo hệ thống:

  • Doanh đứng đầu là quan đề đốc;
  • Liên cơ đứng đầu là quan lãnh binh;
  • Cơ (tương đương vệ) đứng đầu là chưởng cơ hay quản cơ;
  • Dưới cơ là các tổ chức đội, thập, ngũ.

Đội quân Cơ binh của Quân đội nhà Nguyễn thời kỳ đầu có quân số khoảng 150 nghìn người, đến cuối thời kỳ này (1880) quân số này giảm đi đáng kể, ở miền Bắc còn khoảng 60 nghìn người. Ngoài hai lực lượng chính là Vệ binh và Cơ binh, quân đội Nguyễn còn có lính trạm và lính lệ. Trong giai đoạn này, các lực lượng như thủy binh, tượng binh, pháo thủ binh được xây dựng như nước binh chủng chiến đấu.

Thủy binh được chú trọng phát triển với trên 200 nghìn người và một đội thuyền binh lên tới khoảng 800 chiếc không kể các thuyền làm nhiệm vụ vận tải. Trong lực lượng thuyền binh Nguyễn thời kỳ này đã có những chiếc thuyền được thiết kế theo kiểu chiến thuyền của châu Âu, trang bị mỗi thuyền 36 pháo. Có 200 pháo thuyền trang bị từ 16-22 khẩu pháo. Có 100 đại chiến thuyền với 50-70 mái chèo được trang bị pháo và cự thách pháo. Còn lại khoảng 500 chiến thuyền có khoảng 40 mái chèo và trang bị một pháo loại súng thần công.

Thủy quân cũng được tổ chức thành các đơn vị gọi là doanh như bộ binh. Mỗi doanh được biên chế gồm một số vệ (cơ), dưới cơ là các đội thuyền. Thuyền là đơn vị chiến đấu cơ sở. Tùy theo từng loại thuyền mà có số lượng quân khác nhau, trung bình mỗi thuyền chiến đấu có 50-60 người, Đứng đầu là lực lượng thủy binh quân đội Nguyễn thường là Thủy sư đô đốc.

Lực lượng tượng binh ban đầu tổ chức thành 1 doanh gồm có 5 vệ với 50 thớt voi ở kinh đô và 7 cơ ở những tỉnh mà triều Nguyễn xét thấy quan trọng. Sau đó số lượng co hẹp lại chỉ còn 2 vệ ở kinh đô và một vài cơ ở một số tỉnh.

Lực lượng pháo thủ binh cũng được tổ chức thành các doanh, dưới doanh, dưới doanh là vệ (cơ), mỗi vệ gồm một số đội. Biên chế mỗi vệ pháo thủ binh gồm 500 quân và trang bị 10 súng thần công, 200 súng điều sang; với các đơn vị đội biên chế 50 quân và 1 súng thần công. Đối với các đội, cơ pháo thủ binh thuộc lực lượng cơ binh của các tỉnh trực tiếp quản lý lệ thuộc doanh Thần cơ của triều đình về các mặt huấn luyện, trang bị vũ khí.

Dưới thời Minh Mạng đến Tự Đức, Quân đội nhà Nguyễn có khoảng 120 nghìn người. Thời Minh Mạng, quân đội vẫn còn sức chiến đấu khá cao, từng đánh thắng quân Xiêm một số lần. Tuy nhiên sức chiến đấu của Quân đội nhà Nguyễn thời Tự Đức đã yếu kém đi nhiều do trang bị lạc hậu so với quân đội các nước đương thời, huấn luyện kém và triều đình ít quan tâm. Quân đội Nguyễn trong giai đoạn này đã bị quân xâm lược Pháp đánh bại và để đất nước rơi vào sự đô hộ của thực dân Pháp.

Giai đoạn 2 - thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945)

Việt Nam đã bị Pháp xâm lược hoàn toàn và chia ra làm ba xứ để cai trị với ba chế độ khác nhau. Triều đình nhà Nguyễn trở thành tay sai cho thực dân Pháp. Quân đội nhà Nguyễn lúc này vẫn tồn tại hai thành phần là Vệ binh và Cơ binh. Trong lực lượng Vệ binh chỉ còn có Thân binh với biên chế khoảng 2.000 quân trong 4 vệ và 1 đội quân nhạc phục vụ các nghi lễ của triều đình Nguyễn (khoảng 50 nhạc công). Lực lượng cơ binh chủ yếu là bộ binh chỉ còn lại ở các tỉnh Bắc Kỳ do quan đầu tỉnh của triều đình Huế trực tiếp chỉ huy nhưng dưới sự giám sát của viên công sứ Pháp. Lực lượng Cơ binh có khoảng 27.000 quân được chia thành 4 đạo đóng trên địa bàn các tỉnh xung quanh Hà Nộichâu thổ sông Hồng. Khi người Pháp lập nền bảo hộ ở Bắc Kỳ thì họ ghi nhận ở mỗi tỉnh có đề đốc là võ quan đầu tỉnh, lãnh binh phụ tá, chỉ huy khoảng 3 nghìn đến 6 nghìn quân.[4]

Năm 1891, Toàn quyền Đông Dương của Pháp ra nghị định thành lập lực lượng Cơ binh do Pháp trực tiếp tổ chức, trang bị và chỉ huy; lực lượng này ban đầu có khoảng 4.000 quân, làm nhiệm vụ phục vụ quan lại người Việt ở các tỉnh, huyện và canh gác công sở ở địa phương. Và với nghị định này của Toàn quyền Đông Dương đã đặt dấu chấm hết cho Quân đội nhà Nguyễn với tư cách là lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến độc lập.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ nhà nước phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, lực lượng vũ trang của nhà Nguyễn cũng theo đó mà tan rã[5].

Liên quan

Quân đội nhân dân Việt Nam Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 1, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc Quân khu 5, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 2, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 9, Quân đội nhân dân Việt Nam Quần đảo Trường Sa

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quân_đội_nhà_Nguyễn http://books.google.com/books?id=IFNrC0lVLvAC http://books.google.com/books?id=foZAdRgB-nwC http://www.scribd.com/doc/6972561/Thanh-Co-Son-Tay http://www.culturalprofiles.net/Viet_Nam/Directori... http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=587... http://www.vietnamtourism.com.vn/news/vn/detail/58... http://www.vietnamtourism.com.vn/news/vn/detail/58... http://mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZTbkqIwEIaf... http://www.danangpt.vnn.vn/vanhoa/detail.php?id=31...